Kinh A Hàm
Thứ Hai, 26 tháng 8, 2024
- Kinh Trường A-Hàm. Thích Tuệ Sỹ dịch.
- Kinh Trung A-Hàm. Thích Tuệ Sỹ dịch.
- Kinh Tạp A-Hàm. Thích Đức Thắng dịch.
- Kinh Tăng Nhất A-Hàm. Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch.
- Kinh Na-tiên Tỳ khưu. Cao Hữu Ðính dịch.
- Kinh Tỳ khưu Na-tiên. Càn Long Đại Tạng Kinh, Quyển 108, trang 706-753. Thiện Nhựt phỏng dịch và tìm hiểu.
- Kinh 42 Chương. Thích Viên Giác dịch và giảng.
- Kinh Bát Ðại Nhân Giác. Thích Viên Giác dịch và giảng.
- Kinh Di Giáo lược giải. Thích Viên Giác giảng.
- Giải thoát đạo luận (Vimutti Magga). Luận sư Upatissa. Thiện Nhựt dịch từ bản Hán văn.
- Luận về Con Đường Giải Thoát (Vimutti Magga). Luận sư Upatissa. Thích Như Điển dịch.
13 HẠNH TU ĐẦU ĐÀ.
- ... (1)
- Bốn Niệm Xứ (2)
- Bảy Giác Chi (1)
- KHỔ (5)
- sự kiện cần phải quan sát (2)
- Kinh Vô Minh (thức ăn của Minh Giải Thoát) (1)
- Kinh Upāli (sống nơi núi rừng cần chứng sơ thiền trở lên) (1)
- Kinh Từ (1)
- (tán thán và chỉ trích đúng đối tượng) (1)
- (tin tưởng đúng chỗ) (1)
- (chánh hạnh với Mẹ và với Cha) (1)
- (chánh hạnh với Như Lai và với đệ tử của Như Lai) (1)
- Tâm giải thoát (1)
- Bậc chân nhân là biết ơn (1)
- Làm đủ và trả ơn đủ Mẹ và Cha (1)
- Kinh Bà-la-môn Du-sĩ (1)
- Kinh Khóc Than (Ca vịnh (1)
- Kinh Không Thỏa Mãn (1)
- Kinh Buổi Sáng Tốt Ðẹp (1)
- Kinh Suy Nghĩ (suy nghĩ (1)
- Kinh Thiên Sứ (Già (1)
- Kinh Bạn Hiền Trí (bố thí (1)
- Kinh Kalama (1)
- Kinh Hương (chỉ hương người đức hạnh bay ngược chiều gió thổi) (1)
- Kinh Hương (hương người đức hạnh) (1)
- Kinh Bị Đào Lên (thân (1)
- Kinh Sống Viễn Ly (viễn ly ác giới (1)
- Kinh Hành (1)
- Kinh Gậy Thúc Ngựa [bốn hạng người hiền thiện (1)
- Kinh Hạng Người Sai Khác (1)
- Kinh Viễn Ly (thân viễn ly (1)
- Kinh Thời Gian (nghe Pháp đúng thời (1)
- Kinh Sống Trong Rừng (xuất ly (1)
- Kinh Tại Andhakavinda (trú xứ độc cư (1)
- Kinh Khả Lạc (1)
- Kinh Dục Vọng (thế nào là Dục?) (1)
- Kinh Hiền Thiện (ưa công việc (1)
- Kinh Tại Sāmagāma (Sáu Pháp thối đọa) (1)
- Kinh Tôn-giả Nāgita (Trú xứ độc cư) (1)
- Kinh Một Pháp Môn Quyết Trạch (1)
- Kinh Hội Chúng (lợi ích của Sống viễn ly) (1)
- (thành tựu Nhẫn Nhục Tùy Thuận) (1)
- Kinh Công Việc (bảy pháp không làm suy giảm) (1)
- Kinh Ngủ Gục (1)
- Kinh Sân Hận (1)
- Kinh Xấu Hổ (với người đầy đủ tàm úy (1)
- Kinh Pháp Trí (biết pháp (1)
- Kinh A-tu-ta Pahārāda (Tám Pháp vi diệu trong Pháp và Luật này) (1)
- Kinh Thích Tử Mahānāma (1)
- Kinh Phước Nghiệp Sự (1)
- Kinh Rất Là Nhẹ (1)
- Kinh Niệm Chết (1)
- Kinh Cội rễ Của Sự Vật (các pháp lấy Dục làm căn bản) (1)
- Bậc Chân Nhân (10)
- bất hại tầm và có trí tuệ) (1)
- Bảy Giác Chi (5)
- Bệnh (1)
- bệnh hoạn ... (1)
- biết hội chúng (1)
- biết nghĩa (1)
- biết người thắng kẻ liệt) (1)
- biết thời (1)
- biết tự ngã (1)
- biết ước lượng (1)
- Bốn Đạo Hành (1)
- Bốn hạng người (2)
- Bốn Niệm Xứ (11)
- Bốn Thánh Đế (3)
- Các bài kinh về Bố Thí (20)
- Căn bản: Quy y Phật Pháp Tăng (3)
- Chánh Niệm (1)
- Chánh Tánh Quyết Định (1)
- Chánh Tinh Tấn (1)
- Chánh Tri Kiến (6)
- chế ngự các căn đi đến đầy đủ) (1)
- Chết (1)
- Chết) (1)
- Chỉ đúng thời (1)
- Chú tâm tỉnh giác (2)
- cõi Chư Thiên (1)
- cõi Địa Ngục (1)
- cõi Súc Sanh (1)
- Con đường Hữu Học (1)
- cười quá đáng để lộ cả răng) (1)
- đàm luận về Pháp đúng thời (1)
- đạo lộ cũ) (1)
- Đạo lộ tuần tự (7)
- Để thành tựu Dục giải thoát cần thấy Sự nguy hại của Sanh Tử Luân Hồi (3)
- Dự Lưu (6)
- Dục (6)
- Già (1)
- Giới luật (1)
- Hạnh viễn ly (9)
- hầu hạ cha mẹ) (1)
- Hộ Trì Các Căn (8)
- hội chúng (1)
- Hôn trầm thụy miên (1)
- hý luận) (1)
- Khen mình chê người (1)
- Khổ (2)
- Kinh Nhất Dạ Hiền-giả (1)
- Kinh Niệm Hàng Ngày (13)
- KINH TĂNG CHI BỘ (84)
- Kinh Tập (7)
- KINH TIỂU BỘ (13)
- KINH TRUNG BỘ (22)
- KINH TRƯỜNG BỘ (2)
- KINH TƯƠNG ƯNG BỘ (54)
- Kinh Hữu Học (1)
- Kinh Kīṭāgiri (1)
- Kinh Gaṇakamoggallāna (1)
- Đại Kinh Mãn Nguyệt (1)
- Đại Kinh Bốn Mươi (1)
- Kinh Phù-di (1)
- Kinh Nhất Dạ Hiền-giả (1)
- Chương Bốn Pháp - Kinh Không Sợ Hãi (1)
- Năm chi phần Tinh Cần (1)
- là nhớ ơn) (1)
- liên lạc giao thiệp (1)
- Lợi đắc cung kính danh vọng (1)
- Mẹ và Cha (1)
- Mettā (2)
- miệng (1)
- Kinh Gaṇakamoggallāna (1)
- Kinh Chân Nhân (không khen mình chê người) (1)
- Kinh Hiền Ngu (1)
- Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt (1)
- Kinh Khất Thực Thanh Tịnh (1)
- Kinh Thánh Cầu (hãy từ bỏ tín tâm không chính xác của mình) (1)
- Tiểu Kinh Phương Quảng (1)
- Kinh Hữu Học [tiến trình giải thoát] (1)
- Kinh Kīṭāgiri (1)
- Kinh Brahmāyu (32 đại nhân tướng và các oai nghi của Đức Phật) (1)
- Kinh Kinh Caṅkī (1)
- múa nhảy (1)
- Mục đích Tu tập Bốn Niệm Xứ (4)
- Mục lục Bốn Niệm Xứ (1)
- Mục Lục KINH TƯƠNG ƯNG BỘ (1)
- Năm Triền Cái (7)
- Năm Uẩn và Năm Thủ Uẩn (5)
- Nghiệp và Quả của nghiệp (16)
- ngủ (1)
- Ngũ giới (1)
- Ngủ gục (1)
- Người Cư Sĩ (2)
- Nhân Duyên (2)
- Nhẫn Nhục Tùy Thuận (1)
- Nhiệt Tâm (2)
- Như Lý Tác Ý (1)
- NHỮNG BÀI KINH TUYỆT VỜI KHÔNG ĐỌC THẬT TIẾC (theo CS.NB) (6)
- Niệm Chết (2)
- nói chuyện (1)
- nói và làm ác và thiện) (1)
- Quả Phạm hạnh?) (1)
- Quán đúng thời) (1)
- Sân (6)
- Sáu trần (1)
- Si (1)
- Kinh Chúng Không Phải [Tư niệm tham ái là Dục] (1)
- Kinh Mười Lực (1)
- Kinh Thành Ấp (con đường cũ (1)
- Kinh Hột Cải (1)
- Kinh Sông Hằng (1)
- Kinh Cây Gậy (1)
- Kinh Vị Giữ Giới (Như lý tác ý 5 thủ uẩn Vô thường (1)
- Kinh Vị Có Nghe (Như lý tác ý 5 thủ uẩn Vô thường (1)
- SN 25.1 – SN 25.10 (1)
- Kinh Sāriputta (HTCC) (1)
- Kinh Bhāradvāja (hộ trì các căn) (1)
- Kinh Lohicca (hộ trì các căn) (1)
- Kinh Dụ Ngôn Về Chiếc Xe (HTCC) (1)
- Kinh Upavāṇa (thiết thực hiện tại) (1)
- Kinh Hiền [Dục là căn bản của đau khổ] (1)
- Kinh Phạm Hạnh (Thế nào là Phạm hạnh (1)
- [mục đích Phạm hạnh: đoạn tận Tham Sân Si] (1)
- Kinh Từ (1)
- Kinh Người Đeo Vòng Tai (HTCC) (1)
- Kinh Tỷ-kheo (giới khéo thanh tịnh và tri kiến chánh trực) (1)
- Kinh Thối Thất (Để chơn chánh đoạn tận Khổ đau) (1)
- Kinh Ước Muốn & SN 47.38 – Kinh Liễu Tri (Sự chứng ngộ Bất Tử) (1)
- Kinh Sālā (để có Chánh trí như thật về Thân Thọ Tâm Pháp) (1)
- Kinh Phân Biệt (Thế nào là Niệm Xứ) (1)
- Kinh Pātimokkha (căn bản trong các thiện pháp) (1)
- Kinh Ác Hành (1)
- Kinh Các Cảm Thọ & SN 47.50 – Kinh Các Lậu Hoặc (1)
- Kinh Mahānāma [Tam Quy - Người Cư Sĩ] (1)
- Kinh Những Người Ở Veḷudvāra (1)
- Sự nguy hại của Tham Sân Si (5)
- Tâm giải thoát (1)
- Tám Pháp Thế Gian (1)
- Tam Quy (3)
- Tàm Quý (1)
- tâm viễn ly) (1)
- Tăng thượng Tâm (1)
- Tham (4)
- Tham Sân Si (6)
- Thân kiến (1)
- Thân viễn ly (1)
- thân viễn ly) (1)
- Thân-Khẩu-Ý hành (1)
- Thánh Đạo Tám Ngành (3)
- Thiết thực hiện tại (2)
- thuần thục] (1)
- Tiến trình Giải Thoát (6)
- Tiết độ ăn uống (3)
- Tìm hiểu Lời Phật Dạy - Tập 1. Bốn Thánh Đế (1)
- Tỉnh Giác (1)
- Trú xứ độc cư (4)
- Tu đúng cách mới có kết quả (3)
- Tư duy tham ái là Dục (2)
- Tư niệm tham ái là Dục (2)
- Tu tập diệt trừ Dục Tham (14)
- Tuệ giải thoát (1)
- Tuệ giải thoát) (1)
- Tùy Pháp Hành (1)
- Tùy Tín Hành (1)
- Việc cần làm trước khi tu tập Bốn Niệm Xứ (3)
- viễn ly các lậu hoặc) (1)
- viễn ly tà kiến (1)
- Vô ngã) (2)
- vô sân (1)
- Vô thỉ là luân hồi này (3)
- Vô Thường-Khổ-Vô Ngã (1)
- xuất gia (1)
- ý ác và thiện) (1)
Kinh Tạp A Hàm quyển 3a
Kinh Lăng Nghiêm Hòa thượng Tuyên Hóa

Nếu người tu đạo không có Tứ Vô Lượng Tâm, tức là làm ngược lại với đạo và dù có tu đến tám vạn đại kiếp, cũng vẫn còn xa Phật đạo đến cả tám vạn bốn ngàn cây số. Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ BiHỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi.
Người tu hành nhất định là phải bồi dưỡng Tứ Vô Lượng Tâm. Khi có Tứ Vô Lượng Tâm rồi, mình mới có thể giáo hóa chúng sanh và khiến cho chúng sanh lìa khổ được vui.
Tam độc con người là do ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo thành. Đó là vì người ta không có tâm từ bi hỷ xả. Cho nên con người bị đọa lạc đời nầy sang đời khác và tạo nghiệp ác ngày càng nhiều thêm.
Từ là có thể cho niềm vui. Chúng ta có cho chúng sanh niềm vui không? Nếu như không có, đó tức là chúng ta không dùng hết lòng từ của mình. Chúng ta nên tiến đến mục tiêu “vô duyên đại từ,” là dùng lòng từ bi đối xử với những người không có duyên với mình. Chúng takhông những thông cảm với người cùng trong hoàn cảnh khó khăn, mà chúng ta cũng nên thông cảm với cả loài động vật trong cảnh hoạn nạn nữa. Nếu có chuyện không may xảy ra, chúng ta nên ra tay tiếp đỡ, giúp chúng sanh thoát vòng khổ hải. Đấy là công việc mà Phật tửnên làm. Chúng ta đừng nên có thái độ dửng dưng, chỉ biết đứng nhìn mà không chịu giúp, vì thế là đánh mất tinh thần cứu thế của Phật Giáo. Trái lại, Phật giáo lấy từ bi làm hoài bão, dùng cửa phương tiện của đạo Phật để tiếp nhận chúng sanh.
Bi là có thể bạt trừ khổ não. Chúng ta có thể bạt trừ sự đau khổcủa chúng sanh không? Nếu không thể, thì đó là vì chúng ta chưa dùng hết lòng bi của mìmh. Chúng ta nên có tư tưởng “đồng thể đại bi,” cũng tức là thấy người chết chìm như chính mình bị chết chìm, thấy người đói như chính mình bị đói. Phật giáo lấy bi làm tông chỉ, vì bi là lòng lân mẫn, thương xót. Trong khi các nhà Nho nói rằng “bi thiên mẫn nhân” lại cũng phù hợp với ý nghĩa trên. Do đó mà biết rằng tư tưởng của thánh nhân trong thiên hạ đều giống nhau, như cùng xuất phát theo vết bánh xe, không tách rời lòng trắc ẩn xót thương. Phật giáo chủ trương từ bi, Nho giáo đề xướng trung thành và tha thứ. Tâm tâm tương đồng, đấy là cốt tủy của tôn giáo, nếu không thì là dị thuyết của ngoại đạo.
Hỷ là tâm vui vẻ. Chúng ta có hoan hỷ vui thích học Phật Pháp không? Chúng ta có sanh ưu sầu, phiền não, hoặc có tâm tư bực dọc không? Nếu quả là có, chúng ta hãy mau sửa đổi, đừng phát sanh tánh tình như thế. Nếu còn chút ít tập khí, rồi dụng công phu từ thất tình lục dục, thì đó là quan niệm sai lầm. Nên hiểu là chúng ta không được tiếp tục có thứ quan niệm sai lầm như thế. Nếu không, chúng ta không thể nào tưởng tượng nỗi hậu quả của nó sẽ ra sao.
Xả là tâm buông xả. Chúng ta có tâm buông xả không? Nếu có, vậy là lớn hay nhỏ? Là nhất thời hay là vĩnh viễn? Xả cái gì? Là phát tâm cho chúng sanh sự vui vẻ, bạt trừ cái khổ của chúng sanh và giúp họ trong hoàn cảnh nguy khốn. Nếu làm được như thế, chúng ta sẽ sanh lòng hoan hỷ đến mức vô hạn, nhưng chúng ta đừng nên chấp vào đó – làm xong việc rồi nên quên hết chứ đừng lưu giữ trong tâm thức. Nếu chúng ta chấp mà không quên được, đó không phải là hạnh nguyện của Bồ Tát. Chúng ta nên có tinh thần thi ân bất cầu báo thì mới được xem là người Phật tử chân chánh.
Tam độc con người là do ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo thành. Đó là vì người ta không có tâm từ bi hỷ xả. Cho nên con người bị đọa lạc đời nầy sang đời khác và tạo nghiệp ác ngày càng nhiều thêm. Các nghiệp đó tích tập lại từ ít thành nhiều, vì thế độc tố trên thân thể người ta mỗi ngày một thêm sâu đậm. Loại độc nầy không có thuốc chữa trị, rồi lâu dần sẽ biến thành rắn, rết, bò cạp… Những loài động vật nầy: miệng có độc, đuôi có độc, chân có độc, thân cũng có độc. Tóm lại, có các loại độc hại như vậy, hễ nhẹ thì làm người hôn mê, còn nặng sẽ khiến cho người ta mất mạng. Quả thật đáng sợ vô cùng.
Con người nên có lòng từ bi. Đối với người hay đối với sự việc gì, chúng ta cũng nên chung sống trong cảnh hòa bình và đối đãi với nhau bằng tấm lòng chân thật. Tất cả đều là nghĩ đến người khác, chúng ta không được dùng thủ đoạn cay độc để áp bức người. Người học Phật không được bác bỏ nhân quả, mà phải hết sức chú ý đối với chuyện nhân quả báo ứng! Giả như có người công kích quý vị một cách vô lý, hoặc họ dùng lời lẽ phỉ báng, hoặc dùng hành động hãm hại quý vị, quý vị nên xử lý với họ bằng thái độ điềm tĩnh, không chống đối. Quý vị nên dùng tâm từ bi mà cảm hóa người, gọi là: “Lấy đức báo oán,” khiến họ hồi tâm chuyển ý, biết ăn năn sám hối. Chúng ta nên học theo tinh thần của Bồ Tát Di Lặc, tức là Nhẫn! Nhẫn! Nhẫn! Như vậy thì đao thương tự nhiên sẽ biến thành gấm vóc; mưa sẽ tạnh, trời lại trong, sóng cũng yên, gió cũng lặng. Bằng không, nếu mình không có đủ định lực, không có tánh điềm đạm, chuyện nhỏ thì chửi bới, chuyện lớn thì đánh nhau. Kết quả là hai bên đều bị tổn thương, để rồi cũng như con trai, con cò tranh nhau, rốt cuộc ông câu được lợi, và bọn chúng lại trở thành sản phẩm hy sinh.
Lúc xưa có vị Phật Sống của chùa Kim Sơn vì có định lực nên chẳng sợ bất cứ loại độc hại nào. Bởi Ngài dùng lòng đại bi cảm hóa tất cả những loài động vật có độc, cho nên chúng trở thành bạn thân và tuyệt đối không phá hại Ngài. Trong phẩm Phổ Môn có nói: “Phàm hễ ai niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì có thể cảm hóa”, khiến loài vật có độc cải ác hướng thiện và sẽ không nhiễu hại con người. Khi nghiên cứu Phật Pháp, chúng ta nên thông suốt các ý nghĩa và hiểu rõ lý lẽ bên trong, có vậy mới được xem là người chân chánh học tập Phật Pháp.
Nhiều người có tư tưởng ham thích những chuyện cao xa, những cái kỳ lạ, diệu huyền. Họ chuyên dụng công vào mấy thứ cảnh giới như thế. Đó là có tư tưởng sai lầm! Chúng ta nên ở tại nơi Từ, Bi, Hỷ, Xả mà dụng công phu. Vậy dụng công phu như thế nào? Trước hết là chúng ta nên dụng công ở chỗ không tranh, không cầu, không tham, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Đạo lý nầy tuy nông cạn, nhưng trước tiên chúng ta phải nắm chắc chỗ nông cạn đó, vì từ gần sẽ đến xa và từ cạn mới đến sâu. Chúng ta không nên bàn tán đến những chuyện huyền diệu xâu xa, hay lý luận tràng giang đại hải, để rồi không ai hiểu nỗi, vậy chẳng ích lợi chút nào.
Cho nên nói: “Nên quán tánh pháp giới, tất cả do tâm tạo.” Tâm có thể tạo thiên đường, tâm có thể tạo địa ngục. Mười Pháp Giới không ra ngoài một tâm niệm, do đây chúng ta có thể biết rằng: Tâm niệm nhất động, nghiệp ảnh tùy chi, tức là tâm niệm vừa khởi, bóng nghiệp liền theo. Người xưa có nói:
Ba chấm như chùm sao
Lưỡi câu như trăng khuyết
Mang lông từ đây ra
Thành Phật cũng từ đấy.
Đó là diễn tả về cách cấu tạo của chữ tâm, do vậy chúng ta có thể hiểu rõ được tâm tánh của mình. Nếu đã hiểu rõ được tâm mình rồi, thì giận hờn gì cũng không còn nữa. Tất cả những tranh giành, tham lam, tìm cầu, nhất nhất sẽ không có nữa. Lúc bấy giờ chúng ta mới tự tại thật sự, mới giải thoát thật sự, mới hiểu rõ thật sự về ý nghĩa làm người.
Con người vốn sẵn có Phật tánh, mỗi mỗi chúng ta đều có đầy đủ hết. Tuy nhiên, chúng ta lại vứt đi Phật tánh của mình, bỏ cái gần để tìm cái xa và bám níu vào cái bên ngoài. Chúng ta tìm kiếm những thứ rác rưởi, rồi cho là vật quý giá và xem như bảo bối. Đó thật là vừa tức cười, lại vừa đáng thương hại thay! Tôi hy vọng mọi người đều biết nhận thức ra điều nầy mà hạ thủ công phu, giữ lòng trong sạch, bớt ham muốn và đừng cạnh tranh với đời.
Có người nói: “Tất cả những gì trên thế giới, từ sơn hà đại địa, phòng xá nhà cửa, cho đến cây gai cỏ độc và đất, cây, cát, đá đều là do tâm tạo thành.” Nếu đã biết tất cả đều do tâm tạo, vậy tại sao chúng ta không quét sạch hết rác rến trong tâm để trang nghiêm cho thế giới ở vị lai? Thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà được tạo thành, là do lúc xa xưa Ngài vì muốn cho chúng sanh thoát khổ được vui. Do Ngài đã siêng năng tu Lục Độ Vạn Hạnh, và hồi hướng công đức mà tạo ra thế giới Cực Lạc.
Chúng ta cũng nên tạo cho được một thế giới Cực Lạc. Vậy phải tạo như thế nào? Trước hết là chúng ta phải không có thất tình. Thất tình là gì? Đó là hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục; tức là vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, ham muốn. Khi chúng ta điều phục được bảy thứ tình cảm đó, thì chúng sẽ không thể nào tạo phản dấy loạn nữa. Lúc bấy giờ tâm chúng ta sẽ thái bình vô sự, chuyện khổ sở gì cũng không còn. Vì sao có khổ sở? Vì tâm không được bình yên. Và nếu không có những chuyện khổ, chỉ toàn thọ hưởng các điều vui, như vậy là thế giới Cực Lạc của nhân gian rồi.
Một khi chưa hàng phục được thất tình, đó có thể vì chúng mạnh mẽ thái quá hay là yếu ớt bất cập, không phù hợp với trung đạo, cho nên chúng ta mới điên điên, đảo đảo. Nếu chúng ta hiểu rõ thất tình và có thể hàng phục được chúng, khiến chúng đừng gây sóng gió, tức là chúng ta đã hàng phục được tâm. Bởi thất tình từ trong tâm sanh ra, cho nên khi trong lòng hoan hỷ hay bực tức, đó đều là vì tâm đang bị xoay chuyển theo cảnh giới. Bây giờ chúng ta đã tìm ra căn gốc, vậy chúng ta sẽ không còn mê hoặc và cũng sẽ làm cho bọn thiên ma ngoại đạo phải hàng phục. Tại sao thiên ma ngoại đạo đến quấy nhiễu tâm mình? Bởi chúng ta đã dùng tâm tình cảm của mình một cách quá độ. Một khi hướng cầu bên ngoài, tâm chúng ta sẽ không an tĩnh. Do đó chúng ta đã dẫn dắt ma mị vào trong tâm mình để làm chủ nhân ông. Nếu chúng ta nghe theo mệnh lệnh và chịu sự chỉ huy của nó, vậy là chúng ta không còn quyền tự chủ và sẽ làm nô lệ cho nó thôi.
Trích “Khai Thị 6” Hòa thượng Tuyên Hóa
Bothiphap.blogspot.com
Tam tạng kinh điển | |
Kinh
BAT NHANH DAO MP3 Nguyện đem công đức này trang nghiêm Phật Tịnh Độ
| |
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện .PDF
⇨ Kinh Vô Lượng Thọ Giảng Ký
⇨ THỌ KHANG BẢO GIÁM
ÂM LUẬT VÔ TÌNH
⇨ KINH VÔ LƯỢNG THỌ TINH HOA
hoasenvanno.wordpress.com
⇨ PHÁP SƯ ĐỊNH HOẰNG
HT Tịnh Không Pháp Ngữ MP3

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
ph.tinhtong.vn
tuvienquangduc.com.au
thienphatgiao.org
⇨ THỌ KHANG BẢO GIÁM
vanphatthanh.org
daitangkinh.net
HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM
trên đền bốn ân nặng dưới cứu khổ ba đường
nếu có ai thấy nghe đều phát tâm Bồ Đề
hết một báo thân này đồng sanh về Cực Lạc.
🌻 Website : maynghephap.wordpress.com
Người Sáng Lập ( ĐẶNG VĂN QUÝ 17/03/1991 )
Đệ Tử Pháp Danh ; Thiện Đức
☛ This is where you support and contact me



































































































